Luyện tập: Câu 1. Cảm nhận chung về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn. Sốn

Luyện tập

Câu 1. Cảm nhận chung về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ Nhàn.

Sống gần trọn thế kỉ thứ XVI (1549 - 1585), Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chứng kiến cảnh bất công, ngang trái, thối nát của các triều đại phong kiến Việt Nam Lê, Mạc, Trịnh. Xót xa hơn ông thấy sự băng hoại của đạo đức con người:

Còn bạc còn tiền còn đệ tử

Hết cơm hết rượu hết ông tôi

Khi làm quan ông vạch tội bọn gian thần, dâng sớ xin vua chém kẻ lộng thần.  Vua không nghe, ông cáo quan về sông tại quê nhà với triết lí:

Nhàn một ngày là tiên một ngày

thơ Nhàn là một trong những tác phẩm viết bằng chữ Nôm, rút trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập của ông. thơ cho thấy một phần cuộc sống và quan niệm sống của tác giả trong cảnh ẩn dật.

- Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên trong bài thơ là cuộc sống giản dị, đạm bạc (đơn giản) nhưng thanh cao, trong sạch.

- Triết lí sống của ông là tư tưởng nhân sinh của đạo nho, ứng xử trong thời loạn: kẻ sĩ "an bần lạc đạo" (yên phận với cái nghèo, vui với đạo), sông chan hòa với thiên nhiên, giữ cho tâm hồn luôn thanh cao.

- Nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhân cách của một nhà nho ẩn sĩ: cao cả, trong sạch, uyên thâm...

* Có thể tham khảo nhận định dưới đây để mở rộng tìm hiểu vẻ đẹp thanh cao của triết lí nhàn dật trong lí tưởng sống của người xưa :

“Ông nhàn là người sống với tư cách là một cá nhân, chứ không phải với tư cách thành viên của một cộng đồng nào đó, là một con người có lạc thú, chứ không phải chỉ có chức năng, nghĩa vụ. Sống dưới chế độ chuyên chế theo Nho giáo, con người bị trói buộc bởi hai sợi dây : nghĩa và phận. Phận vạch ranh giới cho từng người, quy định mức cho mỗi người được ngồi, đứng, nói năng, xưng hô, ăn, ở. Nghĩa nhắc nhở mọi người có trách nhiệm đối với người trên kẻ dưới,… Trong xã hội tổ chức như vậy, con người không được coi mình là cá nhân – độc lập, có cái riêng của mình, không được nghĩ đến lạc thú. Do đó tìm nhàn dật là tìm cái vui cho thân tâm, tránh cái lụy hình dịch, là tìm thoát khỏi sự ràng buộc chặt chẽ mà vô hình của thể chế chuyên chế theo Nho giáo,… Ông nhàn tự coi mình là cá nhân không bị ràng buộc. Nhưng một mặt không thể coi cá nhân là cô độc, coi cái “tôi” là trung tâm. Cho nên cố tránh ràng buộc bằng cách từ bỏ danh lợi, không đi con đường công danh, giành phận vị, coi thường giàu nghèo, sang hèn, đứng ngoài sự ràng buộc của phận. Để có chút thoải mái đó, ông nhàn phải chủ động tự hạn chế : không cậy tài, yên phận, không tranh giành và không động lòng về lời khen, tiếng chê.”

(Trần Đình Hượu, trong Nguyễn Bỉnh Khiêm danh nhân văn hoá , Bộ Văn hoá thông tin và thể thao xuất bản, H, 1991)